Răng khôn là chiếc răng mọc cuối cùng trên cung hàm (hay còn gọi là răng hàm thứ 3) và thường mọc từ năm 17 tuổi (nếu còn đủ khoảng trống phía sau xương hàm). Răng thứ bảy). Ở 4 góc cằm ai cũng có 4 chiếc răng khôn nhưng cũng có người không thể nhìn thấy răng khôn vì chúng vẫn nằm trong xương hàm. Trong bài này chỉ đề cập đến răng khôn hàm dưới vì chúng thường bị kẹt.
Phân loại răng khôn nội sinh 1. Loại thường gặp nhất là chấn thương gần, tức là răng nghiêng trục về phía trước (về phía răng số 7)) 2. Kẹt dọc 3. Kẹt giấy sang bên đối diện (Phía sau ) Nghiêng 4. Kẹt giấy theo chiều ngang. 5. Xâm nhiễm niêm mạc miệng: răng bị che phủ bởi nướu (lợi bị che phủ) 6. Răng bị mắc kẹt trong hàm: răng luôn bị hàm che phủ và không thể lộ ra ngoài. Lý do phổ biến nhất là không đủ chỗ phía sau răng thứ 7, vì răng thứ 7 thường dài hơn răng 12-13 tuổi, sớm hơn răng khôn ít nhất 5 năm, và đó là do kích thước không tương xứng. giữa răng hàm và răng Kích thước của răng sẽ không đủ chỗ cho những chiếc răng khôn mọc ra. Đá người khi nhai thức ăn cứng không chỉ bào mòn mặt nhai mà còn ăn mòn các điểm tiếp xúc giữa các răng, từ đó làm giảm kích thước của răng, do đó, khi răng khôn mọc lên vẫn còn đủ các vị trí răng. Ngày nay, do chế độ ăn uống nhiều dinh dưỡng mềm làm giảm khả năng di chuyển của răng, giảm mài mòn nên kích thước răng không nhỏ, xương hàm ít di động làm cho hàm nhỏ hơn. rất khó để họ mọc răng khôn Mọc bình thường ở những người hiện đại. Con người thời tiền sử phải nhai thức ăn cứng và nhai nhiều nên có nguy cơ bị gãy răng, mất răng, mỗi khi bị mất răng thì các răng phía sau sẽ di chuyển về phía trước, từ đó làm tăng kích thước của răng khôn. Vì mọi người hiếm khi ăn nhai khó khăn và được điều trị bởi nha sĩ, người hiện đại không có khả năng bị gãy hoặc mất răng. Rủi ro do răng khôn mọc ngược. Thức ăn và vi khuẩn mọc trên răng khôn có thể gây ra mùi khó chịu. & # 7879; Người và người khôn ngoan dễ bị sâu răng. Tình trạng viêm nhiễm khiến bệnh nhân đau đớn, nướu đỏ và mềm, tiết dịch có mủ, viêm nhiễm khi mọc răng khôn có thể gây sưng amidan, hạn chế miệng, người bệnh khó nhai nuốt, ảnh hưởng đến tính mạng. Khả năng làm việc. Một số người có thể bị biến dạng khuôn mặt, nhiễm trùng lan xuống cổ và trung thất (ngực), răng khôn mọc lệch có thể khiến răng số 7 bị sâu, có thể dẫn đến viêm tủy, vỡ tủy. của răng thứ 7. U nang: Các u nang có thể phát triển. Mô mềm xung quanh răng khôn sẽ phá hủy xương gần răng khôn và cuối cùng ảnh hưởng đến các răng kế cận. Lý do và loại bỏ răng khôn Chỉ những chiếc răng khôn mọc kẹt mới có nguy cơ bị nhiễm trùng cơ hoặc sâu răng số 7, hoặc những u nang quanh thân răng mới cần được loại bỏ. Trong một số trường hợp, nếu răng khôn mọc thẳng và còn đủ chỗ góc hàm. Một số người lo lắng khi nhổ răng khôn muốn uống thuốc nhưng thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau chỉ là phương pháp điều trị tạm thời, về sau người bệnh sẽ cảm thấy đau nhức khi nhận biết được răng khôn hoàn toàn, một số trường hợp có thể bị đã gây tê và răng khôn hết kẹt trong xương hàm, bệnh nhân không được ăn trong vòng 6 giờ trước khi gây tê. Đường rạch nhổ răng khôn bắt đầu từ đường rạch và vạt da để lộ vùng mổ, nếu răng khôn bị kẹt trong răng số 7 thì có thể nhổ hoàn toàn hoặc cắt thành nhiều đoạn. Sau khi nhổ răng khôn, cần làm phẳng xương răng khôn, rửa sạch bằng nước muối, oxy già, betaine rồi khâu đóng nướu, nếu sợi chỉ không tiêu, bệnh nhân phải quay lại sau 5 ngày để cắt chỉ. Bệnh nhân nên được cắn 15-20 phút sau khi nhổ răng khôn: Nếu bệnh nhân đang được gây tê, nhổ răng thì nên kê ngay thuốc giảm đau, chống sưng tấy, nếu cần gây tê có thể kê thêm thuốc kháng sinh. bác sĩ vì sợ nhiễm trùng.Nếu bệnh nhân được gây mê, họ nên đợi hoàn toàn tỉnh táo và nên đưa về nhà với cùng một đơn thuốc. Bệnh nhân không nên súc miệng mạnh trong vòng 24 giờ, vì điều này có thể khiến máu đông lại. Ăn xong chỉ cần đánh răng súc miệng nhẹ nhàng với ít nước muối, không nên dùng đồ cay vì sẽ làm tăng phản xạ đau và dễ chảy máu, có thể để dành đá lạnh để cầm máu nhanh. Người bệnh không nên uống rượu, hút thuốc trong ngày đầu tiên, vì điều này sẽ làm vết thương chậm lành và dễ bị chảy máu. Khó chịu có thể xảy ra sau khi nhổ răng: bệnh nhân có thể cảm thấy mệt mỏi do thuốc tê hoặc thuốc tê, có thể chảy máu trong vòng 12 giờ sau khi nhổ răng, lượng máu ít nhưng có thể gây lo lắng, có thể hơi sưng góc hàm dưới trong 4 ngày, và có thể cảm đau nhức vài ngày sau Căng cứng, vấn đề tự khỏi. Biến chứng: Trong một số trường hợp nhổ răng khôn như dị ứng thuốc tê, thuốc mê và các biến chứng khác có thể dẫn đến choáng, ngất thì nên dùng thuốc chống sốc. Do vệ sinh răng miệng kém hoặc do các thủ thuật y tế vô trùng, bệnh nhân có thể bị nhiễm trùng, trong trường hợp này phải dùng kháng sinh. Sau khi nhổ răng, bệnh nhân có thể cảm thấy tê buốt hàm dưới do dây thần kinh hàm dưới bị tổn thương, điều này khiến bác sĩ không thể quan sát kỹ vị trí của răng hàm trên phim X-quang, có thể gây tổn thương dây thần kinh. Bác sĩ thiếu kinh nghiệm có thể làm hỏng 7 răng sau.