Luật sư tư vấn pháp luật
Theo quy định tại Điều 211 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản chung của cộng đồng thuộc sở hữu của dòng tộc, thôn, làng, buôn … cộng đồng tôn giáo, cộng đồng dân cư và tài sản đó được hình thành theo phong tục tập quán, vật phẩm mang lại, Vật phẩm quyên góp được do các thành viên trong cộng đồng cùng nhau quyên góp, quyên góp hoặc quyên góp từ các nguồn khác theo quy định của pháp luật nhằm đáp ứng lợi ích hợp pháp chung của cộng đồng.
Điều 5, Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 quy định cộng đồng dân cư sử dụng đất để làm công trình xây dựng như nhà công vụ, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ …; nhân dân xã do cộng đồng dân cư sử dụng Ủy ban xác nhận rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ được cấp cho đất nông nghiệp không thể tranh chấp theo quy định tại Điều 131, khoản 3 của luật này. Quyền, quyền về đất đai. Sở hữu nhà và đất khác.
Do đó, nơi thờ tự là tài sản chung của cộng đồng, và người đại diện cho đất đai là người đại diện được chỉ định trong giấy chứng nhận quyền sử dụng. Đất đai không thuộc sở hữu cá nhân.
Chủ hộ cho rằng không đúng khi chi cao hơn đương nhiên có quyền sở hữu đất, vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi người sử dụng là người đứng tên cộng đồng dân cư.
Theo quy định tại Thông tư số 23/2014 ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường / Điều 1 Khoản 5 TT-BTNMT thì trường hợp chủ sở hữu tài sản gắn liền với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Bạn phải điền tên cộng đồng dân cư (có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp cộng đồng) và địa chỉ nhà ở chung của cộng đồng dân cư vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do đó, khi bạn có yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất của nhà thờ họ thì chính quyền sẽ ghi tên cộng đồng dân cư cho người sử dụng nên quyền lợi của các thành viên trong dòng họ là bình đẳng. – Luật sư Phạm Quốc Bảo Công ty Luật Bảo Ngọc tại Hà Nội