Bác sĩ Nguyễn Hiền Minh, Phó giám đốc y tế của Trung tâm tiêm chủng trẻ em và người lớn (VNVC), cho biết hiện tại không có vắc-xin bạch hầu ở Việt Nam. Chỉ có vắc-xin kết hợp bao gồm thành phần kháng nguyên bạch hầu.
Có ba loại vắc-xin bạch hầu trong kế hoạch tiêm chủng quốc gia. Vắc-xin 5 trong 1 để phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, Hib và viêm gan B khi trẻ được 2, 3 và 4 tháng tuổi. Vắc-xin bạch hầu, ho gà và uốn ván 16-18 tháng tuổi. Vắc-xin phòng uốn ván cho người lớn có nguy cơ cao chỉ được sử dụng trong thời gian dịch bệnh, không có vắc-xin phổ thông.
Có 4 loại vắc-xin bạch hầu. Bạch hầu, ho gà, uốn ván, uốn ván, bại liệt, Hib, vắc-xin viêm gan B trong sáu. Vắc-xin sáu trong một cho bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, uốn ván, Hib và bại liệt. Hai loại vắc-xin đã được tiêm cho trẻ em lúc 2, 3, 4 và 16-18 tháng tuổi. Vắc-xin bốn trong một ở trẻ em từ 4 đến 6 tuổi ngăn ngừa bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt và tiêm. Bạch hầu, vắc-xin ho và uốn ván cho trẻ em trên 4 tuổi và người lớn, thường được khuyên dùng sau mỗi 10 năm.
Nói chung, việc bảo vệ miễn dịch sau khi tiêm vắc-xin thường kéo dài khoảng 10 năm và hiệu quả bảo vệ đạt 97%, nhưng thời gian sẽ giảm dần theo thời gian.
Bệnh bạch hầu không được loại trừ ở nước ta, vì vậy mọi người vẫn có thể Bệnh mà không có vắc-xin. Ảnh do VNVC cung cấp.
Ở Việt Nam, có một tỷ lệ cao người lớn chưa được tiêm chủng hoặc chưa được tiêm chủng. Ngoài ra, vắc-xin bạch hầu ở người trưởng thành chỉ có thể được mua tại trung tâm tiêm chủng của trung tâm dịch vụ, vì vậy khả năng bảo vệ yếu và dễ gây nguy cơ dịch bệnh. Nếu không lặp lại, bệnh vẫn có thể được chẩn đoán và tỷ lệ tái nhiễm của những người có chức năng miễn dịch thấp là khoảng 2% đến 5%.
Ở người lớn, các triệu chứng phổ biến nhất là cổ họng, amidan, triệu chứng sốt, ớn lạnh, kèm theo khó thở, thở khò khè, khó nuốt và sưng cổ. Viêm họng giả do vi khuẩn có thể lan đến thanh quản, khí quản và phế quản, và có thể chặn một phần đường thở hoặc đột ngột bị phá vỡ, khiến đường thở bị tắc nghẽn hoàn toàn. Các triệu chứng khác bao gồm khàn giọng, ho dai dẳng, sổ mũi, nhịp tim nhanh, phát ban và loét da. Ngoài ra, độc tố bạch hầu có thể gây hại cho tim, dây thần kinh và thận.
Nên tránh bệnh bạch hầu ở người lớn, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai, người già và những người tiếp tục tiếp xúc với trẻ em chưa được tiêm chủng. — Trẻ em thường có khả năng miễn dịch mẹ-con thụ động và không nên bị bệnh. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ từ 6 tháng đến 1 tuổi, chúng sẽ mất khả năng miễn dịch bảo vệ này. Lúc này, nếu không tiêm phòng, trẻ sẽ có nguy cơ mắc bệnh. Độ tuổi dễ bị tổn thương nhất là dưới 15 tuổi.
Bác sĩ khuyên các gia đình nên tiêm vắc-xin bạch hầu để đảm bảo rằng toàn bộ cộng đồng có hệ thống miễn dịch mạnh. Người lớn không được tiêm phòng sẽ trở thành nguồn lây nhiễm trong cộng đồng và gia đình. Nếu người mẹ không có hệ thống miễn dịch trước đó, cô sẽ không thể truyền kháng thể thụ động cho đứa trẻ, và cô sẽ không thể bảo vệ đứa trẻ trong năm tháng đầu đời, vì đứa trẻ có thể được tiêm vắc-xin từ 6 đến 8 tuần. -Tui An