Hội thảo được tổ chức tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cả ngày 15/4. Đây là hội thảo chính của Viện Văn học, đã nhận được 83 bài báo hỗ trợ nghiên cứu. Nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu, nhà phê bình lý luận văn học đã phát biểu, lắng nghe và phản biện. Ban tổ chức đã chọn 32 bài thuyết trình làm báo cáo tổng kết.
Lớp công nhận Giải thưởng Văn học Đổi mới là một biểu hiện mạnh mẽ của cái “tôi”. Trước sau gì văn học cũng phải thực hiện những nhiệm vụ cao hơn để hòa vào cái tôi chung. Cả nước như một điệp khúc “Tôi đọc thơ, nhưng tôi muốn thơ của tôi”. Từ những năm 1970, các tác phẩm văn học đã có dấu hiệu phát triển và xuất hiện những nhân tố mới, nhưng khái niệm “văn học đổi mới” có liên quan đến ý kiến Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện năm 1986. Bước sang giai đoạn này, nhóm biên tập “lên đường tìm lại bản ngã đã mất”.
Nhiều giáo viên, bác sĩ, nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học đã tham dự hội thảo. Bài thơ của Ruan Guangqiu nói rằng văn học đổi mới đã chấp nhận những quan điểm nhiều chiều hơn, với nhiều tiếng nói mới và một tinh thần mới. Chính Nguyễn Quang Thiều là một nhân tố của quá trình đổi mới. Hai mươi năm trước, nhiều người nghi ngờ và kết luận rằng thơ của ông không có tiếng Việt, và bị chỉ trích nặng nề. Các nhà phê bình hiện nay cho rằng ông là người đầu tiên đặt ra một giọng điệu mới trong thơ Việt Nam. Nguyễn Quang Thiều và nhiều người khác khâm phục những đổi thay của văn học thời kỳ đổi mới.
Khi có 3 bài nghiên cứu của các tác giả nói chung đã nghỉ hưu, Sáng tạo Văn học cũng ghi nhận đóng góp của Nguyễn Huy Thiều. Đặc biệt, bài diễn văn Tết của Nguyễn Huệ và bước ngoặt văn học Việt Nam của Phó giáo sư Rahak Hoya sau năm 1975 rất bắt mắt, được Nguyễn Huệ viết về Tết và mô tả quá trình đổi mới văn học. — Theo Phó Giáo sư Ruan Dangdi, Viện trưởng Viện Văn học, từ năm 1986 đến nay, văn học đã có nhiều thành tựu đáng kể. Đời sống văn học được thể hiện một cách sôi nổi, với nhiều tác phẩm phong phú, hấp dẫn, có nhiều trào lưu, cách tân nghệ thuật mới. Điều đáng chú ý là, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, người viết không còn e ngại trước những đề tài nhạy cảm, có thể thoải mái lựa chọn phương thức biểu đạt, cách viết, ngôn ngữ biểu đạt. .. Viện trưởng Viện Văn học cũng đánh giá tổng thể hai hướng đổi mới, đó là đổi mới dựa trên truyền thống và đổi mới nghệ thuật hiện đại phương Tây.
Tuy nhiên, Phó giáo sư Ruan Dangdi cũng chỉ ra những hạn chế của văn học. Chẳng hạn trong thời kỳ đổi mới, văn học chưa có nền tảng triết học, mỹ học nên không có tác phẩm nào xứng tầm với khả năng này. Việc thương mại hóa câu khách bám sát các chủ đề nóng, khiến văn học đôi khi chỉ chú trọng đến chức năng giải trí mà đánh giá thấp giá trị nhân văn, phản biện xã hội. Đề cao văn học cũng là mắt xích yếu của văn học. Công tác quản lý hoạt động văn học cũng còn nhiều bất cập, đơn cử như việc quản lý nhiều trường hợp văn học không mềm đã khiến dư luận bất bình.
Theo Giáo sư Lý luận phê bình Su Wen T, Việt Nam hiện nay chưa tham gia đầy đủ vào các vấn đề xã hội và con người của thế giới. Vì vậy, rất ít kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam được công bố ra thế giới. Giáo sư chỉ rõ: “Lý luận văn học nước ta còn lạc hậu lắm, nên phải mạnh dạn tiếp thu, nếu thấy nội dung chưa hợp lý thì phải trưng bày công khai để truyền thông. Chúng tôi cũng không có đề xuất dịch” .– – GS Phong Lê cho rằng ngày nay có nhiều thế hệ đồng hành văn học. Từ thế hệ 2X (nhà văn Tô Hoài) còn sáng tác cách đây mấy năm, đến thế hệ 3X như Nguyễn Xuân Khánh, Nguyên Ngọc vẫn hoạt động văn học và đã phát triển đến 8 lần ngày nay. Theo giáo sư Phong Lê, ông chỉ mới 20 đến 60 tuổi khi văn học đang phát triển rầm rộ. Sau đó truyền lại cho thế hệ trẻ. Ông đánh giá: “Nền văn học hiện đại ngày nay phải lớn gấp 9 lần. Bạn phải tin tưởng họ và để họ đi đến tận cùng của mình.