Nó bây giờ hấp dẫn hơn các bài xã luận tầm trung, nhưng hiệu ứng thơ hầu như không đáng kể.
Tuy nhiên, dựa trên nhịp điệu và nhịp điệu, sự can đảm của nhà thơ là rất tốt. Không chỉ các nhà báo, mà nhiều người có thể được thăng chức. Tuy không mặn mà với việc sáng tạo thơ phú, nhưng nhà thơ Lê Thanh Nghị cũng có hai ý tưởng mà trong nhật ký khó có thể tìm ra được: “Không ai có ý kiến / lý lẽ thì dễ, còn không bằng thì không ai thấy. Đến / cho đến khi tờ báo bỏ phiếu “thì” Mark đã viết: Con người hơn ai hết trên thế giới này / bởi vì đôi khi anh ấy còn có thể nhìn lên mặt trăng / cần phải viết một câu khác ở đây / đôi khi anh ấy thậm chí không biết làm thế nào để bán mình Những điều-lẽ-thường, mài có sắc, ngọc tỏa sáng. Tiếng nức nở trải rộng của LêThanh Nghi giúp anh có được dư vị thơ Nhớ “có khi như cả phố buồn / thực ra chỉ có ta gánh nỗi buồn trên phố” , Lê Thanh Nghị có rất nhiều câu kinh hay, như “Ta nghe gió thoảng biết vườn thao thức” “Tháng mười nhẹ bâng khuâng trong tay” hay “Trầm tư nghe viên gạch / Tháp đứng giữa đêm khuya. “. Thơ Thanh Nghị phát triển khi tính cách thơ của anh được kết nối với mọi thứ xung quanh. Cố gắng đọc chậm một vài đoạn, bạn sẽ hiểu thông tin trong câu sau được chuyển thành thơ như thế nào:” Dưới chân cây bàng Tê / Mẹ bán hương / Tóc bạc phơ khói đen ”hay“ Chợt ngày đã mọc, năm sao ngắn quá / Dòng sông bay mau. “Hay” chiều muộn / lá thu bên hiên / mưa rơi trên mái nhà / lấp lánh vệt chim bay Những vần thơ của Lê Thanh Nghị vượt qua những ghi chép cuộc đời. Ví dụ: “Anh đã mấy lần nhìn lên, nàng còn ở đó không? / Có phải anh buồn không? ”Đây là một vấn đề, không chỉ người vợ chia sẻ Hóa dầu không ngừng đợi chồng mà còn khiến nhiều người phụ nữ từng hành hạ, chịu đựng đau khổ vào rắc rối!
LêThànhNghị sử dụng từ cũ và hình ảnh cũ, nhưng đôi khi nhiều sâu mới được làm nổi bật vì khả năng mở rộng liên tưởng của nó. Lê Thanh Nghị không nhấn mạnh đến mạn đà la khi viết về rượu địa phương mà tập trung vào sự bàng hoàng: “Chén đón, tiễn bạn từ xa / Chợt từ trên đỉnh núi rơi xuống như đá”. Giọt rượu chưa kịp rơi vào miệng đã rơi thẳng vào tim khiến nó choáng váng, nghiêng ngả và rất sâu. Có lẽ câu ca dao này là món quà của đất nước tri ân người con tha hương mang nợ Lê Thanh Nghị.
Những bài thơ của Lê Thanh Nghị chậm và buồn, luôn tạo cảm xúc cho người đọc khi họ bị oan. Không gian hoài niệm tạm bợ và cảm giác nhớ nhung: “Muôn hoa cỏ cây ngày ấy chờ em / Bao mùa ta vẫn trôi / Xứ Lạng, sau lưng núi / Ký Song màu chàm xanh muôn trùng” hay “Mặc kệ hướng gió mang chín Hương ổi / mây trắng sau cây / ai đi hay voan mỏng / bóng mùa thu in trên mặt hồ ”Ý thơ của Lê Thanh Nghị đã chín dần trong quá trình lật đổ, lật đổ bao suy nghĩ nôn nao. . Để theo đuổi “hồ sen bay”, anh đã viết nhiều bài báo, thức tỉnh những chiêm nghiệm về cái đẹp. Với chủ đề trữ tình tương tự, lần đầu anh viết: “Lá vàng làm cây khó chịu / mà sắc vàng làm nên vẻ đẹp của mùa thu”, lần thứ hai “Không thể làm cho màu lá vàng mùa này. Lấy ở đâu ”. Mùa thu / Nhưng lá vàng vì mùa thu đẹp. “Sự thay đổi thái độ giữa hai cách diễn đạt khác nhau cũng bộc lộ sự thay đổi trong thẩm mỹ thơ. Từ cảm xúc điềm đạm, những vần thơ của Lê Thanh Nghị từ từ khiến người đọc bàng hoàng:” Sông này mất sống chết ngu / Em mất Quên đi cuộc sống của một người. “
Sau khi được nhà thơ Xóm trọ nâng đỡ, Lê Thanh Nghị đã tìm được phong cách riêng cho mình. Giọng văn nhẹ nhàng và ngôn ngữ tao nhã đã giúp Lê Thanh Nghị đến được với người yêu thơ thế kỷ 21:” Tôi ngồi trong nắng mai. Bao lần / đợi tiếng chim? “/ Em đi mấy lần trên đường vắng / Chỉ đợi phút lặng người”!
Sài Gòn, cuối năm 2011