Học viện đã trao tặng Louise Glück với “giọng thơ vô song và vẻ đẹp khắc nghiệt, biến sự sống còn cá nhân trở nên phổ biến”. Cô mô tả những trải nghiệm cá nhân của mình liên quan đến lịch sử, thiên nhiên và cuộc sống hiện đại bằng ngôn ngữ thơ. Chủ tịch Ủy ban Nobel Anders Olsson nói rằng ngôn ngữ của Gluck “đơn giản và không khoan nhượng, điều này cho thấy rằng nhà thơ muốn được hiểu. Cô ấy cũng rất hài hước và hay suy ngẫm.” Glück (Louise Glück) là nhà văn nữ thứ 16 giành được giải Nobel Văn học, bao gồm 10 triệu vương miện. Nhiếp ảnh: Pw .
Louise Elisabeth Glück (Louise Elisabeth Glück) sinh ra ở New York (Mỹ) vào năm 1943. Cô đã tạo ra mười hai tập thơ, một tiểu luận về thơ. Năm 1968, cô xuất bản tập thơ đầu tiên của mình, Firstborn, mà theo học viện, “nhanh chóng được ca ngợi là một trong những nhà thơ hàng đầu trong văn học đương đại Hoa Kỳ”. Sau đó, do sự đổ vỡ của cuộc hôn nhân đầu tiên, sự nghiệp sáng tác của ông bị đình trệ trong vài năm. Năm 1971, khi bắt đầu dạy thơ tại Đại học Goddard, cô đã viết lại và xuất bản tuyển tập thơ thứ hai – Ngôi nhà trên đầm lầy (The House on Marshland). Các chuyên gia Mỹ cho rằng tác phẩm mang tính cách mạng và cách diễn đạt chính xác.
Tập thứ ba của Glück “Hình giảm dần” (Descending Figure) xuất bản năm 1980. Tác phẩm thành công về mặt doanh thu nhưng lại nhận một số chỉ trích về mặt ngôn từ và chủ đề. Nhà thơ Greg Kuzma đã viết bài hát “Children Drown”, cáo buộc Glück là “ghét trẻ em”. Cũng trong năm đó, tác giả bị hỏa hoạn, thiêu rụi nhà cửa và toàn bộ tài sản. Sau thảm kịch, xu hướng sáng tác của ông đã thay đổi, chẳng hạn như bộ sưu tập trong Tri Trimphe d’Achille (1985). Nhà phê bình Liz Rosenberg nhận xét rằng ca từ của cô “rõ ràng hơn, tinh tế hơn và rõ ràng hơn các tác phẩm trước đó.” Nhà phê bình Peter Stitt tuyên bố trên tờ Georgia Review rằng bà là “một trong những nhà thơ quan trọng của thời đại chúng ta.” Bài thơ “Laughing at Oranges” của cô được giới chuyên môn mô tả như một bài ca nữ quyền, và nhiều trường đại học đã dạy cuốn sách này.
Cái chết của cha anh đã truyền cảm hứng cho Glück tạo ra Ararat (1990). Nhà phê bình Dwight Garner (Dwight Garner) gọi tác phẩm này là “tập thơ tàn khốc và bi thảm nhất của Mỹ trong 25 năm qua”. Trong “The Wild Iris” (1992), Gluck nói về thiên nhiên bằng cách nói chuyện với một người làm vườn và một vị thần về bản chất của cuộc sống. Tác phẩm này đoạt giải Pulitzer năm 1993, đưa bà trở thành nhà thơ đương đại nổi tiếng của Mỹ.
Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã thúc đẩy cô viết “Bài thơ tháng Mười”. Trong đó, cô đã dựa vào thần thoại Hy Lạp để nói về sự tổn thương và đau đớn. Trong những năm 2000 và 2010, cô đã xuất bản Averno (2006), A Village Life (2009), Faithful and Virtuous Night (2014). Tác phẩm mới nhất của cô là “American Creativity”, được phát hành vào năm 2017. Cô đã được trao tặng Huân chương Quốc gia bởi cựu Tổng thống Mỹ Brak Obama vào năm 2015.
Năm 2015, Louise Glück đã gặp Tổng thống Hoa Kỳ khi đó là Brac Obama (Bracb Obama). Ảnh: AP .
Trước khi công bố kết quả, Guardian dự đoán sau những lùm xùm vừa qua, trường đại học sẽ có lựa chọn an toàn. Peter Handke, người hai lần giành chiến thắng vào năm ngoái, đã bị tẩy chay vì quan điểm chính trị của mình. Năm 2018, giải thưởng bị hoãn do bê bối tình dục của Jean-Claude Arnault, thành viên hội đồng chính của nhà thơ Katarina Frostenson. Mỗi năm cứ đến thời điểm giải Nobel được công bố, người hâm mộ của ông lại tụ tập để tham dự lễ trao giải, uống rượu whisky là hình nền quen thuộc trong các tác phẩm của ông. Người giám hộ đã phán quyết rằng việc anh ta không giành được giải thưởng trong nhiều năm đã trở thành một trò đùa. Năm ngoái, tờ “Japan Times” đã đăng một bài viết đầy xót xa về nỗi thất vọng sâu sắc của Nhật Bản: “Trong phòng Kyodo News, tiếng còi thất vọng vang lên và rượu sâm panh được giải phóng.” Người ta mang về tủ lạnh, bắt tay trước tin đau đớn. “
Giải Nobel Văn học là giải thưởng thường niên có lịch sử hơn 100 năm. Nó do Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển bình chọn và gắn liền với các lĩnh vực vật lý, hóa học, y học, kinh tế và hòa bình. Trước khi kết quả được công bố, người ta chưa bao giờ tiết lộ rằng ai có thể đoạt giải. Danh sách các ứng cử viên sẽ được công bố sau 50 năm. Giải nhất được trao cho nhà thơ Pháp Sully Prudhomme năm 1901. Thứ Năm.